Ngày 12/12, thị trường bất ngờ trước thông tin T&T Airlines, T&T SuperPort (thành viên Tập đoàn T&T Group) và Quỹ BVIM trở thành cổ đông chiến lược mới của hãng hàng không du lịch Vietravel Airlines.
Tuy nhiên, nếu nhìn lại quá trình trước đó của T&T Group, có thể thấy trước khi đầu tư vào Vietravel Airlines, bầu Hiển đã xây dựng một nền móng vững chắc, sẵn sàng cho sự ra đời của một hệ sinh thái hàng không.
Trong đó, T&T Airlines có thể coi là viên gạch đầu tiên của T&T Group trong chiến lược này. Theo tìm hiểu, doanh nghiệp được thành lập vào năm 2018 với số vốn điều lệ 700 tỷ đồng. T&T Airlines hoạt động chính trong lĩnh vực vận tải hàng không, đại lý du lịch, dịch vụ điều hành bay, các dịch vụ, hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho vận tải hàng không... Đây gần như là một doanh nghiệp chuyên làm dịch vụ về hàng không.
Bước đi tiếp theo trong chiến lược hàng không của T&T Group là xây sân bay. Từ năm 2020, T&T Group đã đề xuất với tỉnh Quảng Trị về việc nghiên cứu, lập hồ sơ dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không Quảng Trị. Và tới tháng 7/2024, dự án có tổng đầu tư 5.800 tỷ đồng đã được liên danh nhà đầu tư T&T Group – Cienco 4 chính thức khởi công xây dựng. Theo kế hoạch, dự kiến Cảng hàng không Quảng Trị sẽ hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2026.
Cảng hàng không Quảng Trị có quy mô hơn 265 ha nằm tại các xã Gio Quang, Gio Hải và Gio Mai, huyện Gio Linh. Dự án được xây dựng đạt tiêu chuẩn CHK cấp 4C (theo mã tiêu chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế - ICAO) và sân bay quân sự cấp II. Sân bay có khả năng phát triển khai thác tàu bay Code E, đáp ứng nhu cầu khai thác đến 5 triệu hành khách mỗi năm và 25.500 tấn hàng hóa mỗi năm.
Tại Hội nghị gặp gỡ 12 tập đoàn lớn của Thường trực Chính phủ vào ngày 21/9/2024, bầu Hiển đã tiết lộ một đề án mới của tập đoàn, đó là đề xuất đầu tư xây dựng một Tổ hợp công nghiệp hàng không - logistics - dịch vụ - thương mại - đô thị sân bay có quy mô khoảng 3.700 ha, đặt tại tỉnh Quảng Trị.
Theo đó, Tổ hợp được quy hoạch gồm 3 cụm chức năng trọng điểm: khu vực lõi là sân bay Quảng Trị, tiếp đến là khu đô thị sân bay và vòng ngoài sẽ là 7 tổ hợp công nghiệp với nhiều cấp độ khác nhau: Tổ hợp công nghiệp với cụm hoạt động tích hợp như bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, đại tu hàng không vũ trụ (MRO), thiết kế và sản xuất, lắp ráp động cơ và linh kiện máy bay, cơ sở đào tạo phi công, chuyên gia hàng không, nhân viên kỹ thuật hàng không; Khu dịch vụ hậu cần hàng không; Khu thương mại tự do; Khu cửa ngõ sân bay; Khu thương nghiệp sân bay; Khu công nghiệp sản xuất và Khu nông nghiệp tiên tiến).
Và Vietravel Airlines – hãng hàng không du lịch đầu tiên của Việt Nam chính là mảnh ghép cuối cùng để T&T Group hoàn thiện hệ sinh thái hàng không, hướng tới xây dựng một tập đoàn hàng không theo các mô hình quốc tế.
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có bất kỳ mô hình tổ hợp hàng không nào như vậy. Tuy nhiên trên thế giới, mô hình hệ sinh thái hàng không đã được triển khai thành công tại nhiều nước phát triển và hiệu quả kinh tế đem lại cho quốc gia, khu vực đã được chứng minh
Tại UAE, mô hình hệ sinh thái hàng không của Tập đoàn Emirates đã mang lại những kết quả kinh doanh ấn tượng. Trong nửa đầu năm tài chính 2024-25, Emirates đạt mức lợi nhuận trước thuế là 10,4 tỷ AED (tương đương 2,8 tỷ USD); doanh thu đạt 70,8 tỷ AED (tương đương 19,3 tỷ USD), tăng 5% so với năm trước, phản ánh nhu cầu khách hàng mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực kinh doanh và khắp các khu vực.
Hệ sinh thái hàng này được xây dựng xoay quanh các trụ cột chính như sân bay, hãng hàng không, dịch vụ mặt đất, các hoạt động bảo dưỡng, sửa chữa và đại tu động cơ máy bay, bảo trì đường bay, dịch vụ hàng không, dịch vụ phụ trợ hàng không, vận chuyển hàng hóa, hoạt động bán lẻ và cung cấp dịch vụ ăn uống trên chuyến bay…
Tương tự, tổ hợp hàng không tại sân bay quốc tế Chicago O’Hare (Hoa Kỳ), sân bay quốc tế Dallas-Fort Worth (Hoa Kỳ) hay sân bay quốc tế Doha (Qatar)… cũng đã và đang đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của các quốc gia này.
Nếu kế hoạch của bầu Hiển thành công, đây sẽ là mô hình hệ sinh thái hàng không đầu tiên của Việt Nam.
Theo số liệu của Cục hàng không, tính đến hết tháng 6/2024, tổng số máy bay các hãng hàng không Việt Nam có trong Chứng chỉ nhà khai thác tàu bay (AOC) là 195 chiếc.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng ngành hàng không đang phát triển "khập khiễng" vì phụ thuộc vào nước ngoài. Thực tế, các hãng chỉ mua tàu bay mà thiếu phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, như bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa, nghiên cứu, sản xuất chế tạo phụ tùng, máy móc hỗ trợ.
Ước tính thuê tàu bay, sửa chữa động cơ... chiếm gần một nửa trong cơ cấu chi phí của các hãng bay trong nước. Các hãng bay cũng không thể can thiệp vào các chi phí này, phải chấp nhận theo mặt bằng chung của thế giới.
Tại Việt Nam, Vietnam Airlines là hãng hàng không duy nhất tự chủ được khâu bảo dưỡng máy bay thông qua công ty con là VAECO. VAECO có 6 hangar tại 2 cơ sở ở Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Các hãng còn lại phải thuê hangar hoặc đưa máy bay ra các cơ sở nước ngoài để bảo dưỡng. Có hãng bay vận hành hơn 100 tàu bay nhưng vẫn đang phải thực hiện bảo dưỡng tại Lào.
Sân bay Tân Sơn Nhất từng có 3 hangar của Công ty Ngôi Sao Việt đáp ứng phần nào nhu cầu của các hãng. Khi các hangar này phải di dời để lấy mặt bằng thi công nhà ga T3, việc tìm kiếm nơi bảo dưỡng máy bay càng trở nên khó khăn.
Sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng bảo dưỡng tại Việt Nam khiến các hãng bay gặp khó khăn trong việc chủ động lên kế hoạch và tối ưu hóa khai thác đội tàu bay hiện có. Việc gửi máy bay ra nước ngoài gặp những khó khăn như khó đặt cọc giữ chỗ cho các hoạt động bảo dưỡng lớn và các bảo dưỡng ngoài kế hoạch như thay càng, động cơ, phát sinh các chi phí gửi đi nước ngoài cao.
Bên cạnh đó, việc không tự chủ trong khâu bảo trì, bảo dưỡng máy bay cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu hụt máy bay, giảm số lượng chuyến bay. Từ đó kéo theo việc giá vé tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu di chuyển của người dân và các ngành kinh tế liên quan mật thiết với hàng không như du lịch, thương mại dịch vụ.
Đây là nguyên nhân khiến nhiều hãng hàng không tích cực tìm kiếm các cơ hội đầu tư xây dựng hangar tại Cam Ranh, Đà Nẵng hay hợp tác với Lao Airlines để khai thác hangar tại sân bay Quốc tế Quốc tế Wattay. Riêng Vietravel Airlines hợp tác với nhà sản xuất máy bay hàng đầu thế giới Boeing để xúc tiến nghiên cứu xây dựng cơ sở bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa tàu bay tại sân bay Phú Bài. .
Đáng chú ý, không chỉ doanh nghiệp trong nước mà hiện nay rất nhiều "ông lớn" thế giới đang muốn xây các trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa máy bay tại Việt Nam như Boeing, HAECO Group - nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật và bảo trì máy bay hàng đầu thế giới có trụ sở chính tại sân bay quốc tế Hồng Kông, Hanwha Aerospace - Tập đoàn hàng không vũ trụ hàng đầu của Hàn Quốc…
Trước đó, chia sẻ về vấn đề này, đại diện CTCP dịch vụ kỹ thuật Hàng không (AESC) cho biết, việc phát triển hangar bảo dưỡng tại Việt Nam là việc làm khó khăn, do các thủ tục liên quan đến đất đai và quy hoạch tại sân bay.
"Thực tế, AESC đã có dự án xây dựng hangar bảo dưỡng tại sân bay Chu Lai từ những năm 2015, nhưng các vấn đề liên quan đến quyền quản lý đất vẫn chưa được giải quyết; các sân bay lớn như Tân Sơn Nhất và Nội Bài đều đã chật; Đà Nẵng không còn chỗ để xây các hangar mới", vị này khẳng định.
Trong khi đó, sửa chữa, bảo dưỡng tàu bay đã trở thành một lĩnh vực được khuyến khích phát triển tại rất nhiều quốc gia, đặc biệt là Châu Á khi số lượng tàu bay tăng lên nhanh chóng trong những năm qua.
Nhu cầu sử dụng các hangar bảo dưỡng không chỉ dành cho các hãng hàng không trong nước hay các hãng hàng không quốc tế khi bay đến Việt Nam, mà còn là của các công ty bảo dưỡng độc lập. Nó có khả năng thu hút khách hàng từ khu vực là rất lớn, như: Lào, Campuchia, Myanmar, Philippines, Bangladesh… thậm chí cả những quốc gia như Nhật Bản, Hàn quốc vì chi phí nhân công cho bảo dưỡng tại các quốc gia này quá đắt đỏ.
Theo dự báo dịch vụ toàn cầu của Airbus, thị trường dịch vụ hàng không thương mại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ tăng gấp đôi giá trị, từ mức 52 tỷ USD hiện nay lên 129 tỷ USD vào năm 2043. Đặc biệt, phân khúc bảo dưỡng máy bay sẽ đạt giá trị 109 tỷ USD.
Đây vừa là cơ hội nhưng cũng đồng thời là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam khi cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội và trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng hàng không vũ trụ toàn cầu.
Việc T&T Group đầu tư một hệ sinh thái hàng không đồng bộ, trong đó điểm nhấn là Tổ hợp công nghiệp hàng không - đô thị sân bay đặt tại tỉnh Quảng Trị cho thấy tầm nhìn chiến lược của bầu Hiển trước cơ hội đầy tiềm năng và nhiều dư địa phát triển của thị trường này. Với lợi thế về quy hoạch và quỹ đất, trong bối cảnh các sân bay tại Việt Nam gần như đã hết đất để có thể mở rộng, Tổ hợp công nghiệp hàng không – đô thị sân bay quy mô lên tới 3.700 ha của T&T Group có cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp hàng không, trong đó đặc biệt là các hangar quy mô lớn, góp phần giải quyết "bài toán" hangar của các hãng hàng không Việt hiện nay; cũng như đón đầu nhu cầu từ các hãng hàng không khu vực và quốc tế.
Tương lai xa hơn, đây có thể trở thành "đất lành" để thu hút các "ông lớn" hàng không trên thế giới đến đặt đại bản doanh.
"Điều mà T&T Group hướng đến khi làm hàng không chính là mang lại được lợi ích cho người dân, giá trị cho doanh nghiệp và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước", ông Đỗ Quang Hiển, Chủ tịch Điều hành T&T Group
Cũng theo đại diện T&T Group, người dân chỉ thực sự hưởng lợi khi chất lượng dịch vụ tăng mà giá vé giảm. Còn các hãng bay, doanh nghiệp thực sự có lợi nhuận khi mở rộng về quy mô và gia tăng chất lượng dịch vụ nhưng lại giảm thiểu được tối đa các chi phí vận hành, nâng cao được năng lực cạnh tranh.
Sự phát triển của ngành hàng không không chỉ giúp khai phóng hết các tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, quỹ đất, nguồn nhân lực… của các địa phương, nó còn khai mở những cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với đó là khả năng thu hút dòng vốn FDI từ các "đại bàng" lớn thế giới đến đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, đặc biệt là với nhóm ngành công nghệ cao như vi mạch, bán dẫn….
Những điều này đều đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng GDP, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt trong là kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc.
Đây cũng là đánh giá của ông Brendan Nelson, Phó Chủ tịch Cấp cao Tập đoàn Boeing kiêm Chủ tịch Boeing toàn cầu: "Phát triển ngành hàng không sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho đất nước và người dân Việt Nam".
Bên cạnh đó, mô hình logistics đa phương thức mà T&T đang phát triển sẽ trở thành các nguồn lực bổ trợ hiệu quả cho hệ sinh thái hàng không của Tập đoàn khi có thể khai thác, tận dụng được từ hạ tầng, chuỗi cung ứng vận tải hàng hóa xuyên suốt, cho đến nguồn nhân lực tay nghề cao và nguồn khách hàng ổn định sẵn có.
Ở một góc độ khác, việc bổ sung mảnh ghép Vietravel Airlines để hoàn thiện bức tranh hệ sinh thái hàng không của T&T Group cũng mang những ý nghĩa, tác động tích cực.
Để triển khai chiến lược phát triển logistics đa phương thức, ứng dụng công nghệ cao theo xu hướng thế giới, T&T Group đã xây dựng được một hệ thống hạ tầng logistics đồng bộ, từ cảng biển nước sâu Cảng Quảng Ninh, Trung tâm logistics thông minh Việt Nam SuperPort tại Vĩnh Phúc, cho đến Cảng hàng không Quảng Trị, Cụm Công nghiệp Nam Phúc Thọ (Hà Nội) và sắp tới đây là dự án cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương ở Tây Nguyên. Một số dự án về cảng cạn, logistics ở khu vực phía Nam cũng đang được T&T nghiên cứu đầu tư.
Qua đó, góp phần tích cực trong việc đưa chi phí logistics của Việt Nam giảm từ 18% xuống 15% như mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra, tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, góp phần duy trì chuỗi cung ứng và đưa Việt Nam trở thành một mắt xích chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đáng chú ý, soi chiếu vào quá trình phát triển của T&T Group với những bước đi song hành cùng đất nước trong hơn 3 thập kỷ phát triển, dễ dàng nhận thấy một điểm nổi bật trong chiến lược đầu tư kinh doanh của bầu Hiển, đó là luôn bám sát vào các trụ cột của nền kinh tế quốc gia. Và hàng không cũng không nằm ngoài chiến lược đó khi T&T Group hoạch định kế hoạch phát triển một hệ sinh thái hàng không toàn diện được xây dựng dựa trên các nền tảng: công nghiệp – thương mại – dịch vụ - tài chính.
Hệ sinh thái hàng không không chỉ là bước đi đầy táo bạo của bầu Hiển mà còn cho thấy tầm nhìn mới cùng chiến lược kinh doanh khác biệt của vị doanh nhân này trong kỷ nguyên mới của đất nước.
Tổ hợp đô thị sân bay, công nghiệp hàng không 3.400ha "phượng hoàng cất cánh" tại Quảng Trị
Ngày 14/1 vừa qua, UBND tỉnh Quảng Trị có buổi làm việc với Tập đoàn T&T Group và Ban Quản lý khu kinh tế tỉnh Quảng Trị báo cáo phương án, ý tưởng quy hoạch tổ hợp công nghiệp hàng không - logistics - dịch vụ - thương mại và đô thị sân bay Quảng Trị.
Theo CPG Corporation Singapore - đơn vị tư vấn dự án, sau khi nghiên cứu bối cảnh, vị trí, tiềm năng của tỉnh Quảng Trị, đơn vị tư vấn cho rằng, hệ sinh thái sản xuất công nghiệp, hậu cần cảng biển và phức hợp năng lượng với diện tích công nghiệp quy mô lớn sẽ phát huy tính cạnh tranh kinh tế phía Đông của tỉnh Quảng Trị dựa trên vận tải biển.
Bên cạnh đó, vận tải hàng không sẽ giúp hoàn thiện năng lực cạnh tranh cho sản xuất công nghiệp hoàn thiện, các ngành công nghiệp sản xuất công nghiệp hoàn thiện, các ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm nhạy cảm về thời gian vận chuyển, tính cạnh tranh về sản xuất và xuất khẩu…
Từ đó, đơn vị tư vấn đề xuất các ngành công nghiệp tiềm năng như năng lượng tái tạo và công nghệ xanh; logistics, cảng và thương mại, chế biến nông sản giá trị cao; sản xuất nhẹ và các ngành công nghiệp hỗ trợ; giáo dục và đào tạo nghề; ngư nghiệp và nuôi trồng thủy sản; công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế số. CPG Corporation Singapore cũng đề xuất hệ sinh thái công nghiệp cho khu đô thị sân bay; tổ hợp công nghiệp hàng không…
Đáng chú ý, CPG Corporation Singapore đưa ra phương án đề xuất sẽ quy hoạch lấy ý tưởng "phượng hoàng cất cánh" được phát triển từ những giá trị lịch sử và chiến tích hào hùng trên dòng sông Thạch Hãn, cùng ý chí kiên cường của con người Quảng Trị, đưa sự phát triển của nơi đây lên tầm cao mới.
Theo đó, quy hoạch thành các phân khu quan trọng trong Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị gồm: Khu công nghiệp và phức hợp năng lượng, cảng biển, khu đô thị du lịch sinh thái, khu nông nghiệp nông thôn hiện đại và khu vực sân bay.